THUYẾT PHỤ THUỘC
Nhóm 2

Lịch sử hình thành và phát triển
Các cơ sở của lý thuyết phụ thuộc được cho rằng: Các quốc gia nghèo cung cấp tài nguyên thiên nhiên, lao động rẻ, một điểm đến cho công nghệ lạc hậu, và thị trường các nước phát triển, mà không có mà sau này không thể có mức sống họ được hưởng. Các quốc gia giàu có tích cực duy trì một trạng thái của sự phụ thuộc bằng các phương tiện khác nhau. Ảnh hưởng này có thể là nhiều mặt, liên quan đến kinh tế, kiểm soát phương tiện truyền thông, chính trị, tài chính ngân hàng, giáo dục, văn hóa, thể dục thể thao.
Lịch sử:
Thuyết phụ thuộc được mở rộng và là tiền đề của những lý thuyết như “Chủ nghĩa đế quốc văn hoá”, “Sự thống trị văn hoá của các tập đoàn xuyên quốc gia”, hay “chủ nghĩa đế quốc truyền thông”, trong đó truyền thông của những quốc gia trung tâm trong thuyết phụ thuộc là công cụ gây xói mòn văn hoá của những quốc gia vệ tinh, kích thích chủ nghĩa tiêu dùng ở những quốc gia này và dần đồng hoá để tăng sự phụ thuộc vào quốc gia trung tâm. Những người ủng hộ thuyết này tin rằng, có sự tương đồng trong việc “hiện đại hoá” và sự phát triển của truyền thông quốc tế, tức là những chủ sở hữu lớn của thông tin thường thuộc về những quốc gia phương Tây và Mỹ; Khi những chủ sở hữu này theo đuổi lợi nhuận, chúng phải có liên hệ mật thiết với lợi ích chính trị của những quốc gia sở hữu. Sản phẩm truyền thông đạt được mục đích lợi nhuận, song, gián tiếp lan tỏa “lối sống tư bản kiểu Mỹ”, sự tốt đẹp của chủ nghĩa tư bản.
Nội dung thuyết phụ thuộc
Quan điểm chính của lý thuyết này là: Các công ty xuyên quốc gia ở phương Tây (cùng với chính phủ) đang kiểm soát các luật lệ và chuẩn mực thương mại toàn cầu.
Dễ hình dung những quốc gia có sức mạnh yếu hơn sẽ luôn phục vụ cho sự thịnh vượng của những quốc gia mạnh hơn, và trong đó những nước ngoại vi của ngoại vi sẽ phục vụ cho cả ba nhóm còn lại, dẫn đến việc nhóm quốc gia này khó có thể phát triển nội lực. Trong thể chế toàn cầu hoá, giới tinh hoa sẽ liên kết với nhau để đảm bảo lợi ích nhóm, do đó duy trì tình trạng phân biệt giàu nghèo.
Hệ thống quy định này đã điều tiết tất cả thị trường, tài nguyên, nền sản xuất và sức lao động toàn thế giới. Từ đó củng cố vị thế thống trị của các quốc gia phát triển và đẩy các nước kém phát triển ra ngoài rìa phúc lợi, hay “vùng ngoại vi” – dân tộc ngoại vi”, khiến họ trở thành nước phụ thuộc
Thuyết phụ thuộc được mở rộng và là tiền đề của những lý thuyết như “Chủ nghĩa đế quốc văn hoá”, “chủ nghĩa đế quốc cấu trúc”, trong đó truyền thông của những quốc gia trung tâm trong thuyết phụ thuộc là công cụ gây xói mòn văn hoá của những quốc gia vệ tinh, kích thích chủ nghĩa tiêu dùng ở những quốc gia này và dần đồng hoá để tăng sự phụ thuộc vào quốc gia trung tâm.
Trên phương diện TTQT, lý thuyết này vạch ra nhiều góc cạnh vấn đề văn hóa, như sản xuất-phân phối-tiêu thụ các sản phẩm văn hóa và truyền thông.Theo đó, các nhà nghiên cứu trường phái này cho rằng, tồn tại mối liên kết giữa chính sách “hiện đại hóa” và các chính sách của các tập đoàn TT đa quốc gia, được các nước phương Tây chống lưng.Từ đó, một quan niệm mới về“chủ nghĩa đế quốc văn hóa” ra đời
Chủ nghĩa đế quốc văn hoá
Ý tưởng về “chủ nghĩa đế quốc văn hóa” được thể hiện trong các nghiên cứu của Herbert Schiller (1919 –2000), nhà phê bình truyền thông, nhà xã hội học người Mỹ. Ông là người theo trường phái Mác-xít mới.
Chủ nghĩa đế quốc văn hóa là một lý thuyết mô tả quá trình một nền văn hóa thống trị gây ảnh hưởng lên các nền văn hóa khác, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các hình thức giao tiếp. Nó liên quan đến việc áp đặt các giá trị, niềm tin và thực tiễn từ nền văn hóa thống trị lên nền văn hoá khác, thường với mục tiêu đồng hóa hoặc thống trị. Một số nhà phê bình cho rằng chủ nghĩa đế quốc văn hóa dẫn đến sự xói mòn văn hóa và bản sắc địa phương, đồng thời nó có thể kéo dài sự bất bình đẳng và áp bức.
Theo đó, sự phụ thuộc vào công nghệ và đầu tư Hoa Kỳ kèm theo những nhu cầu mới về phương tiện đã làm phổ biến các thiết bị truyền thông và các chương trình truyền hình của Mỹ trên toàn cầu. Từ đó, giúp Mỹ và phương Tây không chỉ quảng bá văn hóa và dịch vụ thương mại, mà còn trực tiếp hay gián tiếp phát tán “lối sống tư bản kiểu Mỹ”. Hậu quả là “sự xâm lược điện tử” và phá hủy giá trị cộng đồng truyền thống ở các quốc gia thuộc thế giới thứ 3
Xét ở thời hiện đại, cụ thể đó là việc âm nhạc, truyền hình hay phim ảnh “nước ngoài”, v.v… không chỉ trở nên phổ biến với giới trẻ mà hơn thế nữa còn làm thay đổi mức độ kỳ vọng vào cuộc sống và lòng khát khao của họ mong muốn đất nước mình trở nên giống hơn với quốc gia được mô tả. Ví dụ Công nghiệp điện ảnh Hollywood với các bộ phim, chương trình truyền hình và âm nhạc Mỹ đã lan rộng khắp các quốc gia trên thế giới. Những tác phẩm này thường mang theo giá trị và lối sống Mỹ, từ các giá trị tự do đến cuộc sống thường ngày, mô tả lối sống của người Mỹ từ đó làm thay đổi sự kỳ vọng, thế giới quan về xã hội, văn hoá, đạo đức của người dân ở đất nước thuộc thế giới thứ 3, khiến họ mong muốn đất nước, lối sống và văn hoá của họ trở nên giống Mỹ hơn, và dần mất đi một vài văn hoá vốn có của họ.
VD: Một ví dụ điển hình của việc xuất khẩu văn hóa Mỹ ra khắp thế giới đó là các tập tục văn hóa của họ, chẳng hạn như tiêu chuẩn cái đẹp của phương Tây, ngày càng xuất hiện nhiều hơn trên các phương tiện truyền thông toàn cầu. Ngay từ năm 1987, Nicholas Kristof đã viết trên tờ The New York Times về một phụ nữ trẻ người Trung Quốc đang lên kế hoạch phẫu thuật để làm cho đôi mắt của mình trông tròn hơn, giống mắt của phụ nữ da trắng hơn
b. Chủ nghĩa đế quốc cấu trúc
Thuyết Chủ nghĩa Đế quốc cấu trúc xuất hiện vào năm 1971, được viết bởi nhà xã hội học Johan Galtung và kế thừa từ lý thuyết phụ thuộc. Phát triển tiếp tục lý thuyết phụ thuộc, Johan Galtung cho rằng: thế giới bao gồm các quốc gia phát triển “trung tâm” và các quốc gia kém phát triển “ngoại vi”. Nhưng không chỉ có vậy, mà mỗi khu vực nói trên đó đều có “trung tâm” và “ngoại vi” của mình. Vì kết cấu như vậy nên trên thế giới sẽ hình thành các mối quan hệ chi phối phức tạp, ảnh hưởng lợi ích lẫn nhau, bởi vậy Galtung định nghĩa: “chủ nghĩa đế quốc cấu trúc” là một kiểu quan hệ chi phối phức tạp mà ở đó hình thành nên quan hệ chi phối lợi ích giữa “trung tâm của trung tâm” và “trung tâm của ngoại vi”. Mối quan hệ trên tương đối cân xứng, tuy nhiên mối quan hệ giữa nhân dân thuộc khu vực trung tâm với nhân dân của khu vực ngoại vi lại mất cân đối nghiêm trọng.
Từ luận cứ trên, có thể suy ra rằng, lợi ích của giới elite ở các nơi là giống nhau , cộng hưởng với nhau nhiều hơn là với nhân dân nước đó, và sự liên hệ đó mới thực sự chi phối kinh tế toàn cầu. Trong khi đó, mỗi hạt nhân trung tâm vẫn đồng thời duy trì sự chi phối của mình đối với các khu vực ngoại vi của chúng.
Galtung phân tích mô hình này ở 5 lĩnh vực khác nhau như kinh tế, chính trị, quân sự, truyền thông và văn hoá, tạo ra 5 kiểu chủ nghĩa đế quốc tương ứng. Ví dụ, “Chủ nghĩa đế quốc truyền thông” và “chủ nghĩa đế quốc văn hoá” có mối quan hệ chặt chẽ với nhau vì thông tin và văn hoá luôn đi đôi với nhau.
Cơ chế nền tảng của “chủ nghĩa đế quốc cấu trúc” có thể được giải thích thông qua hai hình thức tương tác chính, được Johan Galtung gọi là “theo chiều dọc” và “phong kiến”.
Tuy nhiên, lợi ích thường chảy ngược lại, từ các quốc gia đang phát triển lên các quốc gia phát triển. Điều này có nghĩa là các quốc gia “trung tâm” thường hưởng lợi nhiều hơn từ mối quan hệ này so với các quốc gia “ngoại vi”.
Ví dụ:
Các công ty đa quốc gia từ các quốc gia “trung tâm” thường tận dụng nguồn lao động rẻ tiền và tài nguyên từ các quốc gia “ngoại vi” để tăng lợi nhuận của họ.
Ảnh hưởng và hậu quả
Sự biến đổi trong thông tin và tin tức được truyền đạt.
Ảnh hưởng: Thuyết phụ thuộc có thể dẫn đến việc các quốc gia yếu đuối hoặc không phát triển phụ thuộc vào các nguồn thông tin từ các quốc gia mạnh mẽ hơn. Do đó, thông tin và tin tức được truyền đạt có thể bị chi phối và biến đổi theo quan điểm và lợi ích của các quốc gia ảnh hưởng.
Hậu quả: Sự biến đổi này có thể gây ra sự thiên vị và thiếu trung thực trong thông tin và tin tức được truyền đạt, ảnh hưởng đến quan điểm và ý kiến của người tiêu dùng và dân chúng trên toàn cầu.
Sự thất thoát văn hóa và đa dạng truyền thông địa phương:
Ảnh hưởng: Thuyết phụ thuộc có thể gây ra sự áp đặt văn hóa từ các quốc gia mạnh mẽ hơn lên các quốc gia yếu đuối, dẫn đến sự thất thoát văn hóa và sự mất đi đa dạng trong nội dung truyền thông địa phương.
Hậu quả: Mất mát văn hóa và đa dạng truyền thông có thể dẫn đến sự mất đi của bản sắc và danh tính văn hóa của các cộng đồng và dân tộc, góp phần vào quá trình đồng nhất hóa văn hóa toàn cầu.
Các ví dụ về thuyết phụ thuộc trong truyền thông quốc tế từ thực tiễn.

Sự phụ thuộc vào Công Nghệ và Nền Tảng Truyền Thông: Các quốc gia và tổ chức phụ thuộc vào các công nghệ và nền tảng truyền thông toàn cầu, như Google, Facebook, Twitter, YouTube, và Netflix để phân phối và tiếp cận nội dung truyền thông. Việc này tạo ra một môi trường phụ thuộc, khi mà một số ít công ty công nghệ lớn chiếm lĩnh thị trường và ảnh hưởng đến quyết định truyền thông toàn cầu

Phụ Thuộc vào Nguồn Tin Chính: Các quốc gia có thể phụ thuộc vào các quốc gia hoặc tổ chức mạnh mẽ hơn để có nguồn tin chính hoặc nền tảng truyền thông. Ví dụ, các quốc gia có thể sử dụng CNN, BBC, hoặc Al Jazeera để tiếp cận thông tin quốc tế, tạo ra một môi trường phụ thuộc và ảnh hưởng đến quan điểm và ý kiến công chúng nội địa.

Phụ Thuộc vào Ngôn Ngữ và Văn Hóa: Các quốc gia có thể phụ thuộc vào ngôn ngữ và văn hóa của các quốc gia lớn để tiếp cận các nền tảng truyền thông toàn cầu. Ví dụ, các quốc gia nói tiếng Anh thường chiếm ưu thế trong TTQT do sức ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông như CNN, BBC, và Hollywood.

Phụ Thuộc vào Nguồn Tài Chính: Việc sản xuất và phân phối nội dung truyền thông có thể đòi hỏi nguồn tài chính lớn, và các quốc gia có thể phải phụ thuộc vào các quốc gia mạnh mẽ hơn để có tài trợ hoặc đầu tư. Điều này tạo ra một môi trường phụ thuộc và có thể ảnh hưởng đến nội dung và quyết định truyền thông.
Một số Phản ứng và biện pháp giải quyết của các quốc gia và tổ chức trước thuyết phụ thuộc.
Đầu Tư và Phát Triển Công Nghệ Truyền Thông: Các quốc gia và tổ chức có thể tăng cường đầu tư và phát triển công nghệ truyền thông nội địa, bao gồm cả việc tạo ra các nền tảng và dịch vụ truyền thông cạnh tranh với các nền tảng toàn cầu. Việc này giúp tăng cường khả năng cạnh tranh và độc lập trong lĩnh vực truyền thông.
Quản Lý và Kiểm Soát Nội Dung: Một số quốc gia và tổ chức có thể áp dụng các biện pháp quản lý và kiểm soát nội dung truyền thông để bảo vệ lợi ích quốc gia và đảm bảo sự đa dạng thông tin. Tuy nhiên, cách tiếp cận này có thể gây ra tranh cãi về tự do ngôn luận và quan điểm.
Ví dụ: Trong lĩnh vực truyền thông ở Việt Nam, kiểm duyệt thông tin thường được thực hiện thông qua các cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức truyền thông đảm bảo tính chính xác, đáng tin cậy và phù hợp của thông tin truyền tải.
